
Chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế (Obsessive-Compulsive Disorder – OCD) là một trong những hội chứng của rối loạn về tâm lý, nó cũng có liên quan trực tiếp đến stress. Một số liệu pháp tâm lý có thể giúp chúng ta cải thiện cách đối phó với những ám ảnh gây ra bởi chứng rối loạn tinh thần này.
Mục lục
Chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế là gì?
Rối loạn ám ảnh cưỡng chế là những rối loạn thúc đẩy những hành động không mong muốn. Nó buộc người bị chứng rối loạn này phải lặp lại một hành động liên tục, thậm chí trái với ý muốn của người đó.
Người mắc rối loạn ám ảnh cưỡng chế phần nào hiểu rõ tính chất vô ích của ám ảnh. Chính họ cũng công nhận ý nghĩ ám ảnh và hành vi cưỡng chế của họ là phi lý.
Nhưng phần lớn họ không có nhận định chắc chắn về sự sợ hãi của mình hoặc thậm chí có niềm tin mạnh mẽ rằng những hành vi đó là phù hợp.
Nguyên nhân chính của của hội chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế
Trong số các nguyên nhân gây ra hội chứng này, chúng ta có thể xác định do những điều sau đây:
- Nhiễm trùng
- Chấn thương đầu
- Hoạt động không đều của một số vùng não

Lịch sử lạm dụng tình dục hoặc thể chất cũng làm tăng nguy cơ mắc phải loại rối loạn lo âu này.
Ngay cả khi nguyên nhân không được biết chính xác, nỗi ám ảnh về tinh thần do rối loạn cưỡng chế cũng có thể là do di truyền.
Hội chứng này cũng được quy cho là do giáo dục quá cứng nhắc. Cha mẹ bảo vệ quá mức và kiểm soát quá chặt chẽ cũng có thể làm tăng sự lo lắng ở con cái họ.
Nếu sử dụng thuốc uống vượt quá mức nhất định, nó cũng có thể thúc đẩy hội chứng này.
Người bị mắc hội chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế nên được chẩn đoán sớm
Một số phụ huynh và giáo viên chủ nhiệm là những người có thể đã nhận ra sớm các triệu chứng của rối loạn ám ảnh cưỡng chế ở trẻ em. Tuy nhiên, đến 19 – 20 tuổi thì những trẻ em lớn lên mới được chẩn đoán là bị mắc phải.
Ở một số người khác bị mắc hội chứng này thì mới phát hiện được các triệu chứng sau 30 tuổi. Ngay cả trẻ em cũng có thể bị bệnh lý này.
Rối loạn ám ảnh cưỡng chế thường gây ra sự lo lắng, sợ hãi và bất an trong thời gian dài. Và vì các nỗi ám ảnh này, những người mắc phải thường không thể bình thường trong các hoạt động của cuộc sống hàng ngày.
Triệu chứng của rối loạn ám ảnh cưỡng chế
Trong điều kiện bình thường, việc một người thực hiện cùng một hành động hai lần không phải là vấn đề. Ví dụ, nếu trước khi rời khỏi nhà bạn muốn chắc chắn rằng bếp đã tắt và kiểm tra lại, đó không phải là một hành động cho thấy sự hiện diện của sự xáo trộn này.
Ngược lại, việc kiểm tra này có thể lặp lại mỗi ngày và vô thời hạn. Nói chung, nó đi kèm với những suy nghĩ hoặc thói quen lặp đi lặp lại, gây ra sự thống khổ và lo lắng, làm người mắc bệnh cảm thấy bất an trong cuộc sống hàng ngày.
Những hiện tượng này được gọi là nỗi ám ảnh, bị cưỡng chế thực hiện hành vi bởi những suy nghĩ ám ảnh và những người này rất đau khổ vì không thể kiểm soát bản thân.
Trong số những nỗi ám ảnh, chúng ta có thể tìm thấy nhiều suy nghĩ ảnh hưởng đến rối loạn tâm trí, như nỗi sợ vi trùng, làm tổn thương ai đó hoặc liên quan đến những suy nghĩ tôn giáo hay tình dục kỳ lạ.
Các cưỡng bức hoặc hành vi lặp đi lặp lại, ảnh hưởng đến các người mắc phải theo thứ tự, đếm, ví dụ làm sạch đi sạch lại hoặc sắp xếp trật tự trong một cách đặc biệt.
Những suy nghĩ ám ảnh và hành vi kỳ lạ này có thể làm cho người bị mắc chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế phải vắng mặt nhiều lần tại nơi làm việc hoặc trường học.
Ở những người bị ám ảnh tinh thần, một số hành động, chẳng hạn như rửa tay, lau nhà, dọn phòng, khóa cửa… cứ lặp đi lặp lại các bước tương tự hết lần này đến lần khác, không thể kiểm soát được.
Họ thậm chí không thể kiểm soát suy nghĩ của mình và ngay cả khi họ không nhận được bất kỳ niềm vui nào từ các hành vi, nhưng họ vẫn có thể tìm thấy sự giải thoát khỏi sự lo lắng.
Trong ít nhất một giờ mỗi ngày họ tuân theo thói quen này, điều đó làm họ đau khổ vì nó ảnh hưởng, can thiệp quá nhiều vào các sinh hoạt khác trong đời sống thường ngày.
Cách điều trị rối loạn ám ảnh cưỡng chế
Chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế gây ra những nỗi ám ảnh về tinh thần được coi là một bệnh thần kinh có chỉ số khuyết tật cao.
Hội chứng này cũng được xem là có khả năng làm giảm chất lượng cuộc sống của bệnh nhân phổ biến nhất trong các loại bệnh về thần kinh, vì nó làm kiệt sức cả về thể chất và tinh thần bệnh nhân.
Những người mắc phải hội chứng này thường tự cô lập bản thân và tách mình ra khỏi các mối quan hệ của anh ta với các thành viên trong gia đình, thậm chí có thể trở thành đối đầu.
Trong một số trường hợp, chính suy nghĩ của các bệnh nhân hay hành vi không có khả năng kiểm soát nó của họ, gây ra cho các mối quan hệ sự khó chịu.
Tuy nhiên, ở những người khác, các thành viên trong gia đình có xu hướng phớt lờ họ hoặc hợp tác trong thực hiện các hành vi bị cưỡng chế theo các suy nghĩ ám ảnh, điều này cũng phản tác dụng không kém.
Khi đối mặt với sự nghi ngờ rằng bạn đang gặp phải vấn đề này, trước tiên bạn phải tìm kiếm sự chăm sóc y tế từ các bác sĩ để nhận được sự chẩn đoán. Nếu cần thiết, gặp những trường hợp này, nên được chuyển đến gặp một chuyên gia có thể điều trị sâu hơn.
Bước tiếp theo, bệnh nhân có thể phải sử dụng một liệu pháp tâm lý để giải quyết bởi một nhà tâm lý học, một bác sĩ tâm thần hoặc một nhân viên y tế xã hội chuyên môn.
Trị liệu hành vi này, bằng cách là dạy cách suy nghĩ, hành xử và phản ứng với các tình huống căng thẳng, chẳng hạn như các thói quen lặp đi lặp lại cùng một hành vi.
Những phương pháp điều trị này có thể cũng sẽ gây ra sự lo lắng và sợ hãi, cũng như là áp dụng những suy nghĩ ám ảnh và những hành vi bắt buộc.
Thuốc chống trầm cảm và thuốc giải lo âu (bắt buộc chỉ được kê toa bởi bác sĩ chuyên khoa) là những loại thuốc được khuyên dùng để tránh những ám ảnh về tinh thần.
Chủ đích của những loại thuốc này là đưa vào cơ thể các hóa chất nhằm kích hoạt những nỗi ám ảnh ở mức độ chính xác. Nó bắt đầu với liều thấp, tăng dần theo thời gian.
Để phát hiện và điều trị bệnh tận gốc, bạn cần trải qua sự giám sát y tế thích hợp. Nỗ lực khi điều trị là để làm giảm sự căng thẳng gây ra bởi các hành vi cưỡng chế và do đó sẽ giúp bệnh nhân giao tiếp tốt hơn.
Và chỉ có bằng cách này, mới có thể đảm bảo sự tái hòa nhập của người bệnh với xã hội.
Các bài khác có thể bạn quan tâm :
- Muốn thay đổi bản thân, phải nên thay đổi 3 điều này
- Học cách yêu thương bản thân sẽ đem lại lợi ích gì?
- Phụ nữ trưởng thành có các đặc điểm và mong muốn gì?
- 10 cách tạo động lực làm việc cho bản thân tối ưu nhất
- Tuổi trung niên : 10 lời khuyên để tìm kiếm hạnh phúc